Ngày 4/7: Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ và những sự thật ít người biết

Chuly sưu tầm

Ngày 4/7: Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ và những sự thật ít người biết

Mặc dù ngày 4 tháng 7 được chọn là ngày kỷ niệm từ rất lâu, nhưng nhiều người cho rằng ngày này không chính xác.
Ngày 1/7: Tín hiệu nguy hiểm SOS được chấp thuận và sử dụng phổ biến nhất trên thế giới
Ngày 30/6: Một giây đầu tiên trong lịch sử được cộng thêm và cuộc chạy đua vô tận bắt đầu
Ngày 29/6: Chiếc iPhone đầu tiên được Apple bán ra thị trường
Ngày 4 tháng 7 được coi là ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ, nhằm kỷ niệm Tuyên ngôn độc lập của nước này được ký vào năm 1776. Ngày lễ này thường được đi kèm với những cuộc diễu hành, liên hoan ngoài trời, và nhiều nghi lễ khác.

Mặc dù ngày 4 tháng 7 được chọn là ngày kỷ niệm từ rất lâu, nhưng nhiều người cho rằng ngày này không chính xác. Nhà văn Mỹ Kenneth C. Davis tiết lộ ngày 2/7 mới thực sự là ngày thích hợp để đánh dấu lễ kỷ niệm đặc biệt của quốc gia.

Ông Davis cũng cho biết thực tế cựu tổng thống John Adams soạn thảo Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ vào ngày 2/7, còn ngày 3/7 ông dành để viết thư cho vợ là bà Abigail Adams. Sau đó, phải mất 2 ngày sau quốc hội Mỹ mới chấp thuận tuyên bố của Thomas Jefferson. Do đó, theo ông, ngày độc lập của nước Mỹ thực chất là ngày 2/7.

Trong lịch sử, có 3 trong số 5 tổng thống đầu tiên của Mỹ qua đời đúng vào ngày Quốc khánh. John Adams, tổng thống thứ 2 và Thomas Jefferson, tổng thống thứ 3 là những đối thủ trong suốt sự nghiệp chính trị nhưng lại chết cách nhau vài giờ đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày quốc khánh.

John Adams qua đời ở tuổi 90 tại nhà riêng ở Quinc, Massachusett còn Jefferson qua đời ở tuổi 83 tại Virginia. Sau đó, James Monroe, tổng thống thứ 5 cũng qua đời vào đúng ngày 4/7 kỷ niệm 55 ngày quốc khánh Mỹ.

Có một sự thật thú vị khác liên quan đến ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ, đó là biểu tượng của nước này lẽ ra không phải là đại bàng đầu trọc mà là … gà tây. Trong bức thư gửi con gái Sarah Bache năm 1784, nhà lập quốc Benjamin Franklin viết rằng ông không hài lòng khi đại bàng trọc được chọn là biểu tượng cho dân tộc Mỹ.

Pays d’en Haut
Đến năm 1660, những người thợ săn, nhà truyền giáo và quân đội Pháp ở Montreal đã tiến về phía tây dọc theo Hồ Lớn ngược dòng vào Pays d’en Haut và thành lập các tiền đồn tại Green Bay, Fort de Buade và Saint Ignace (cả ở Michilimackinac), Sault Sainte Marie , Vincennes và Detroit năm 1701. Trong Chiến tranh Pháp và người da đỏ (1754-1763), nhiều khu định cư này đã bị người Anh chiếm đóng. Đến năm 1773, dân số của Detroit là 1.400.[24] Vào cuối cuộc Chiến tranh giành độc lập năm 1783, khu vực phía nam Hồ Lớn chính thức trở thành một phần của Hoa Kỳ.

Vùng Illinois
Vùng Illinois vào năm 1752 có 2.500 người Pháp sinh sống; nó nằm ở phía tây của vùng Ohio và tập trung quanh Kaskaskia, Cahokia và Sainte Genevieve. Theo một học giả, “người cư trú Illinois có một tâm hồn vui tươi, anh ta có vẻ vô tư đến mức gây sốc cho những người Thanh giáo tự cao tự đại từ các thuộc địa của Mỹ.”[25]

Louisiana
Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Louisiana thuộc Pháp kéo dài hàng ngàn dặm từ Louisiana hiện đại phía bắc đến miền Trung Tây phần lớn chưa được khám phá, và phía tây dãy núi Rocky. Nó thường được chia thành Thượng và Hạ Louisiana. Vùng đất rộng này lần đầu tiên có người định cư tại Mobile và Biloxi vào khoảng năm 1700, và tiếp tục phát triển khi 7.000 người Pháp nhập cư thành lập New Orleans vào năm 1718. Quá trình định cư diễn ra rất chậm; New Orleans trở thành một cảng quan trọng, là cửa ngõ của sông Mississippi, nhưng có rất ít sự phát triển kinh tế khác vì thành phố thiếu một vùng nội địa thịnh vượng.[26]

Năm 1763, Louisiana được nhượng lại cho Tây Ban Nha quanh New Orleans và phía tây sông Mississippi. Vào những năm 1780, biên giới phía tây của Hoa Kỳ độc lập mới vua ra đời trải dài đến sông Mississippi. Hoa Kỳ đã đạt được thỏa thuận với Tây Ban Nha về quyền điều hướng trên sông và bằng lòng để cho quyền lực thực dân “yếu ớt” kiểm soát khu vực này.[27] Tình hình đã thay đổi khi Napoléon buộc Tây Ban Nha trả lại Louisiana cho Pháp vào năm 1802 và đe dọa sẽ đóng cửa con sông với các tàu Mỹ. Được cảnh báo, Hoa Kỳ đề nghị mua New Orleans.

Napoleon cần tiền để tiến hành một cuộc chiến khác với Vương quốc Anh, và ông nghi ngờ rằng Pháp có thể bảo vệ thành công một lãnh thổ rộng lớn và xa xôi như vậy. Do đó, ông đề nghị bán toàn bộ Louisiana với giá 15 triệu đô la. Hoa Kỳ đã hoàn thành việc mua lại Louisiana vào năm 1803, tăng gấp đôi quy mô của quốc gia.[28]

Bài Khác