Biển Đông ‘nóng’ hay ‘nguội’ trong năm 2019?

Biển Đông ‘nóng’ hay ‘nguội’ trong năm 2019?

.

Tư liệu – Nhóm chiến hạm Ronald Reagan trong một cuộc diễn tập ở Biển Đông, ngày 31 tháng 8, 2018. REUTERS

Trung Quốc sẽ phản ứng quyết liệt hơn để ngăn các nước tuần tra vì tự do hàng hải trên Biển Đông, có thể có va chạm nhỏ giữa các nước tranh chấp và leo thang thành sự cố lớn trong khi mặt trận đàm phán vẫn hết sức cam go và mối quan hệ đồng minh Mỹ-Philippines đang đứng trước thời điểm thử thách.

Những dự đoán của các chuyên gia về chính trị quốc tế Mỹ cho năm 2019 được đưa ra trong khuôn khổ hội thảo thường niên nhan đề ‘Dự báo Châu Á năm 2019’ được tổ chức ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tại thủ đô Washington, Mỹ, hôm 23/1. Các học giả hàng đầu của CSIS đã đưa ra những phân tích và dự đoán về tình hình Bắc Triều Tiên, Biển Đông và chiến tranh thương mại Trung-Mỹ.

Thực lòng đàm phán?

Về khả năng xảy ra sự cố trên Biển Đông, ông Gregory Poling, giám đốc Chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI), nhắc đến các cuộc tuần tra tự do hàng hải (gọi tắt là FONOP) mà Mỹ và các nước đồng minh dồn dập thực hiện trong suốt năm 2018 như là một yếu tố tiềm năng gây ra sự cố.

Ông giải thích rằng Trung Quốc đang tức giận với sự tham gia của ngày càng nhiều nước phương Tây vào chiến dịch FONOP khi không chỉ có Mỹ mà còn có Anh, Pháp, Úc cũng thực hiện FONOP của riêng họ. Do đó, Bắc Kinh đang phản ứng quyết liệt hơn và liều lĩnh hơn trước.

“Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể chiến thắng trên Biển Đông nếu họ giữ nó trong phạm vi tranh cãi song phương Trung-Mỹ,” ông Poling nói, “Nhưng nếu nó là vấn đề giữa Trung Quốc và cộng đồng quốc tế thì Trung Quốc sẽ khó mà chiến thắng hơn.”

Do đó, ông dự đoán trong thời gian tới Trung Quốc sẽ có hành động quyết liệt để khiến các nước đồng minh của Mỹ kiềm chế các hoạt động FONOP trên Biển Đông.

Về tiến trình ngoại giao, ông Poling chỉ ra rằng ‘không có tiến bộ gì nhiều’ mặc dù phía Trung Quốc đã tuyên bố đặt mục tiêu hoàn tất bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), với các nước ASEAN trong thời gian ba năm.

Ông đưa ra dẫn chứng hồi tuần trước trong cuộc họp thường niên giữa Trung Quốc và Việt Nam về các vấn đề biên giới, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh đã thể hiện sự bực dọc rõ ràng với tốc độ tiến triển chậm chạp của phía Trung Quốc trên hồ sơ COC.

“Họ (các bên đàm phán) đã bàn được 50% những vấn đề dễ dàng nhất nhưng họ thậm chí còn chưa bàn đến những vấn đề chủ chốt chẳng hạn như phạm vi địa lý của COC đến đâu, liệu nó có bao gồm Quần đảo Trường Sa hay bãi cạn Scarborough hay không, làm sao hiện thực hóa những vấn đề như quyền đánh bắt, dầu khí, cơ chế giải quyết tranh chấp,” ông Poling cho biết.

Đàm phán COC còn gặp một trở ngại lớn trong năm 2019 là nước giữ vai trò chủ tịch ASEAN và chịu trách nhiệm thúc đẩy cuộc đàm phán là Thái Lan sẽ bị ‘xao nhãng’ bởi cuộc tổng tuyển cử trong nước họ nên họ sẽ không tích cực và chủ động thúc đẩy đàm phán, ông Poling dự đoán.

Một nước khác đang giữ vai trò điều phối viên quan hệ với Trung Quốc là Philippines cũng ‘không hiệu quả’ trong việc nắm bắt ý đồ của Trung Quốc. Theo lời ông Poling thì không có gì mà Manila tuyên bố về ý định của Trung Quốc là đúng và Manila luôn nói những điều mà Trung Quốc không bao giờ thực hiện, chẳng hạn như bắt đầu tiến trình COC vào năm 2017 hay sẽ ký kết COC vào năm 2018.

‘COC khó khả thi’

“Điều đó đòi hỏi sự thay đổi rất nhiều trong chiến lược của các bên,” ông nhận định và đưa ra ví dụ về điều duy nhất mà Bắc Kinh sẽ quyết định là làm rõ về đường chín đoạn của họ trên Biển Đông và phạm vi của ‘chủ quyền lịch sử’ của họ như đòi hỏi của các bên.

Bắc Kinh lâu nay vẫn mập mờ về đường chín đoạn để họ có dư địa rộng rãi để hành động trên Biển Đông vì họ có thể tùy nghi giải thích theo ý họ muốn.

“Để làm được như vậy cần phải có áp lực rất rất nhiều của cộng đồng quốc tế để thuyết phục Trung Quốc rằng việc họ bị xem là kẻ đứng ngoài pháp luật ở Biển Đông sẽ hủy hoại tính chính đáng của họ như là một cường quốc đang nổi có trách nhiệm được tham gia vào việc xác lập luật lệ toàn cầu,” ông Poling nói.

Tuy nhiên, áp lực đó không hề có với việc ông Rodrigo Duterte lên làm Tổng thống Philippines và chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump chỉ tập trung vào vấn đề Bắc Triều Tiên và thương mại với Trung Quốc, cũng theo ông Poling

Trả lời câu hỏi của VOA liệu Bắc Kinh có thật sự nghiêm túc đàm phán COC để hướng tới một khu vực Biển Đông hòa bình và ổn định hay không khi họ đã công khai tuyên bố với thế giới về thời hạn chót trong ba năm, ông Poling cho là ‘có’.

“Đó chủ yếu bởi vì họ (Bắc Kinh) nghĩ rằng thời gian hiện giờ đã chín muồi để ép các nước đông nam Á có những nhượng bộ mà trước đây họ không chịu,” ông giải thích. “Bắc Kinh tin rằng Philippines giờ đây đã dễ bị nắm đầu hơn, họ cũng đang dùng đòn bẩy để ép Việt Nam và các nước khác như Indonesia chấp nhận một thỏa thuận dựa trên lập luận về sự thoái lui của Mỹ khỏi khu vực là không tránh khỏi và Trung Quốc chắc chắn sẽ thắng lợi trên Biển Đông để lôi kéo các nước đông nam Á đi theo Trung Quốc. Họ đang thuyết phục ông Duterte như vậy.”

Ông Poling cũng chỉ ra việc Trung Quốc quân sự hóa nhanh chóng Biển Đông trong năm qua đến mức hiện giờ họ đã có sự hiện diện luân phiên 24/7 của các tàu chiến của Hải quân và Tuần dương trên toàn bộ Biển Đông là bằng chứng cho thấy Trung Quốc không hề xem đàm phán là con đường duy nhất mà ‘đó là hành động của một nước chuẩn bị dùng vũ lực nếu các cuộc đàm phán thất bại’.

Đàm phán đa phương là thế, còn các cuộc đàm phán song phương thì theo ông Poling cũng không mấy sáng sủa. Ông dẫn ra chuyến thăm Manila của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi cuối năm ngoái khi hai bên ký bản ghi nhớ về hợp tác cùng khai thác thăm dò dầu khí và đặt ra khung thời gian để đạt được thỏa thuận chính thức vào tháng 11 năm nay.

“Nếu Trung Quốc thật sự sẵn sàng chấp nhận nguyên tắc của Philippines được ghi trong bản ghi nhớ rằng các công ty Trung Quốc đầu tư khai thác dầu khí phải tuân theo luật pháp Philippines và đóng thuế cho Philippines thì điều đó có nghĩa là Trung Quốc công nhận thềm lục địa của Philippines,” ông giải thích. “Tôi không thấy có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc sẽ có nhượng bộ như thế. Do đó, thời hạn chót này sẽ tiếp tục được đẩy lùi.”

Về việc Bắc Kinh có hành động cưỡng ép Hà Nội phải dừng thăm dò dầu khí trên Biển Đông trong năm 2017 và 2018, ông Poling cho rằng Việt Nam sẽ không chấp nhận mãi như vậy.

“Luôn luôn có khả năng một sự cố nhỏ giữa Việt Nam và Trung Quốc leo thang,” ông nói.

Đồng minh xích mích

Trong khi đó, mối quan hệ đồng minh có hiệp ước giữa Mỹ và Philippines vốn đã có trên 60 năm đang gặp rất nhiều khó khăn nhất là trước yêu cầu của Manila đòi Washington phải làm rõ cam kết của mình, nhất là trên Biển Đông.
Chính quyền Mỹ trước giờ vẫn rất miễn cưỡng trong việc đưa các tranh chấp lãnh thổ giữa Philippines và Trung Quốc vào phạm vi của Hiệp ước Phòng vệ tương hỗ (MDT) vốn yêu cầu Mỹ phải bảo vệ Philippines nếu họ bị tấn công do Washington không muốn dính vào một cuộc đối đầu quân sự với Bắc Kinh.

Bên cạnh đó, theo bà Amy Searight, giám đốc chương trình đông nam Á của CSIS thì chính quyền của ông Duterte ngày càng tỏ ý nghi ngờ về ý nghĩa của MDT đối với Philippines nhất là sau sự kiện Trung Quốc giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough hồi năm 2012 mà Mỹ không có hành động gì để can thiệp.

Bà Searight cho biết ông Duterte đã nói rõ rằng ông không hào hứng với liên minh với Mỹ và đã nói về việc tách ra khỏi Mỹ.

Bà chỉ ra một loạt những tuyên bố nối tiếp nhau cho đến gần đây ở phía Philippines là đòi xem xét lại MDT với Mỹ và công khai chất vấn ý nghĩa của nó. Bà nói rằng ông Duterte sẽ xem việc rút ra khỏi hiệp ước mà ông xem là không còn ý nghĩa nữa là một lựa chọn.

“Bất chấp việc phía Mỹ tiếp tục bày tỏ cam kết sắt đá đối với quan hệ đồng minh với Philippines, phía Philippines muốn biết liệu Mỹ sẽ làm gì nếu họ rơi vào một cuộc xung đột ngày càng leo thang với Trung Quốc?” bà Searight nói.

Ông Poling nhận định rằng việc xem xét lại MDT cũng là một rủi ro tiềm tàng trên Biển Đông.

“Nếu Mỹ đưa ra một cam kết không đủ rõ ràng thì sẽ khiến Trung Quốc phiêu lưu trên Biển Đông,” ông nói.

Tuy nhiên, việc đưa ra cam kết rõ ràng với Manila sẽ khó khăn hơn khi Hạ viện đã rơi vào tay Đảng Dân chủ vốn rất quan ngại về những vi phạm nhân quyền của ông Duterte và không muốn ông Trump quá thân thiết với một nhà lãnh đạo độc tài như ông Duterte, theo nhận định của ông Michael J. Green, phó Giám đốc cao cấp phụ trách châu Á của CSIS.

Vai trò Mỹ-Nhật-Ấn-Úc

Về vai trò của nhóm Bộ Tứ bao gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc mà chính quyền Trump đưa ra để thay thế cho chính sách tái cân bằng về châu Á-Thái Bình Dương của cựu Tổng thống Barack Obama, ông Richard M. Rossow, chuyên gia cao cấp về Ấn Độ của CSIS nói rằng vào lúc này mối bận tâm chủ yếu của New Delhi là lấy lại phạm vi ảnh hưởng ở khu vực của họ vốn đang rơi dần vào tay Trung Quốc.

“Do đó, xử lý các vấn đề ở Ấn Độ Dương hiện đang được Ấn Độ quan tâm nhiều trong khi các thành viên khác của Bộ Tứ lại quan tâm về Đông Á,” ông Rossow nói. “Đó là sự chia rẽ mà Bộ Tứ phải giải quyết.”

Bà Searight cho rằng các nước ASEAN không hào hứng gì về vai trò của Bộ Tứ trong các vấn đề an ninh khu vực bởi vì họ xem ‘nó được định hình giống như là nỗ lực để loại bỏ vai trò trung tâm của Asean’ và các nước ASEAN đang tìm kiếm sự đảm bảo rằng Bộ Tứ sẽ không có bất cứ sự cạnh tranh vai trò gì với các định chế mà ASEAN lãnh đạo.

Ngoài vấn đề an ninh ra thì ASEAN hoan nghênh vai trò của Bộ Tứ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng vốn họ xem là một lựa chọn thay thế cho ‘Vành đai và Con đường’ của Trung Quốc, cũng theo bà Searight.

“Chỉ có Việt Nam là hoan nghênh vai trò lớn hơn của Bộ Tứ trong vấn đề an ninh,” bà nói.

Về khả năng các nước Asean sẽ bị lôi kéo nhiều hơn về quỹ đạo của Bắc Kinh trong năm 2019, bà Searight cho rằng bản thân Trung Quốc đang gặp rất nhiều ngờ vực xung quanh Sáng kiến Vành đai-Con đường của họ và những hành xử của Bắc Kinh tại hội nghị thượng đỉnh APEC ở Papua New Guinea càng khiến các nước trong khu vực bất mãn.

Bà đưa ra dẫn chứng ở Malaysia là sau khi chính quyền của Thủ tướng Mahathir Mohamad lên nắm quyền ông đã đàm phán lại những dự án Vành đai và Con đường với Trung Quốc mà chính phủ tiền nhiệm khởi xướng và phê phán những hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Thay vì Trung Quốc, bà Searight cho rằng các nước đông nam Á sẽ ‘xích lại gần hơn với Nhật Bản’ vì Nhật Bản đã can dự về kinh tế rất sâu trong khu vực và ngày càng tăng cường can dự về an ninh.

“Thủ tướng Shinzo Abe đã tăng cường hợp tác không chỉ về an ninh mà còn về các ý tưởng xây dựng cơ sở hạ tầng và đổ tiền nhiều hơn vào các dự án hạ tầng,” bà Searight cho biết.

Bà phân tích rằng với Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn diện và Tiến bộ (CPTPP) đi vào hiệu lực thì Việt Nam và Malaysia, những nước là thành viên của CPTPP, sẽ càng gắn kết với Nhật về kinh tế sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đã từ bỏ CPP vốn là tiền thân của CPTPP.

Bên cạnh đó, việc ông Abe có mối quan hệ cá nhân tốt đẹp với tất cả các lãnh đạo các nước đông nam Á hơn bất cứ lãnh đạo các cường quốc nào khác cùng với việc ông Abe không mặn mà với vấn đề nhân quyền khiến nước Nhật của ông càng có ưu thế ở các nước đông nam Á, nhất là đối với các nước như Thái Lan và Myanmar vốn bị Mỹ và EU chỉ trích về nhân quyền.

Riêng về Campuchia, ông Gregory Poling bày tỏ quan ngại về khả năng Trung Quốc sẽ xây dựng căn cứ quân sự tại đây trong tương lai.

“Mặc dù Campuchia đã hết sức bác bỏ việc họ cho Trung Quốc xây căn cứ nhưng Campuchia vẫn thường phủ nhận rất nhiều điều mà sau đó thật sự đã xảy ra,” ông Poling cảnh báo.

“Nếu có nơi nào đó ở đông nam Á mà anh có thể hình dung quân đội Trung Quốc có sự hiện diện thì đó sẽ là Campuchia,” ông nói, “Tôi không cho rằng đó sẽ là căn cứ thường trực mà là sự hiện diện luân phiên của Trung Quốc.”

“Bắc Kinh không cần phải lo về sức ép của dư luận do những người xung quanh mà ông Hun Sen dựa vào tương đối nhỏ,” ông Poling nói. “Họ chỉ cần mua chuộc lãnh đạo là xong.”

Nguồn: VOA

Bài Khác